Nhân xơ tử cung là bệnh phổ biến ở phụ nữ sau 30 tuổi và thường là người đã quan hệ tình dục. Có khoảng 30 % chị em có nguy cơ mắc bệnh lý này.
Nhân xơ tử cung không phải bệnh nguy hiểm bởi đa phần là lành tính. Tuy nhiên, các triệu chứng bệnh có thể gây ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày. Một số ít các trường hợp là u ác tính có thể dẫn tới .
Nhân xơ tử cung là bệnh gì?
Nhân xơ tử cung là tên gọi khác của bệnh u xơ tử cung. Những khối u phát triển từ thành tử cung, cấu tạo bởi nhứng tế bào cơ tử cung. U xơ có thể là một khối hoặc nhiều khối u gây ra. Kích thước của chúng có thể thay đổi theo thời gian phát triển.
Tuy được gọi là u nhưng nhân xơ tử cung đa phần là lành tính
Nhân xơ tử cung được gọi là u nhưng theo các bác sĩ chuyên khoa, đa số đều là những khối u lành tính, chỉ có 0,1% trường hợp là phát triển thành . Tỉ lệ nhân xơ tử cung gia tăng theo tuổi, dưới 5% bị u xơ trước 30 tuổi; 25-30% xảy ra trong khoảng 30 – 39 tuổi; 60% ở khoảng độ tuổi 40 – 49 và hầu như không có u xơ ở tuổi trước dậy thì.
Đa nhân xơ tử cung là gì?
Đa nhân xơ tử cung là bệnh u xơ tử cung nhưng do số lượng của các khối u xơ xuất hiện với mức độ nhiều hơn và được gọi là đa nhân xơ.
Hiện nay, vẫn chưa xác định được chính xác nguyên nhân trực tiếp gây bệnh nhân xơ tử cung ở phụ nữ, nhưng giới chuyên môn nhận thấy rằng nội tiết tố oestrogen có tác động rõ ràng lên nhân xơ. Tuy nhiên, nhận định này vẫn còn trong diện xem xét và thẩm định.
Nguyên nhân gián tiếp gây ra bệnh
Chưa biết đích xác nguyên nhân trực tiếp nhưng có nhiều lý do gián tiếp gây ra tình trạng nhân xơ tử cung đã được đề cấp đến. Chúng bao gồm:
- Yếu tố di truyền: Nhiều ư xơ mang sự thay đổi gen khác với tế bào cơ tử cung bình thường. Có nhiều bằng chứng cho thấy rằng u xơ có xu hướng xảy ra theo gia đình.
- Estrogen và Progesterone: U xơ có nhiều thụ thể estrogen và progesterone hơn các tế bào cơ tử cung bình thường và có xu hướng teo lại sau mãn kinh do sự suy giảm hormone.
- Béo phì: Thừa cân sẽ làm suy giảm chất đề kháng insulin, từ đó kéo theo sự suy giảm chức năng của các bội phận khác như thận, tuyến giáp, vùng dưới đồi….Chính tuyến giáp lại là nơi có ảnh hưởng rất lớn đến nội tiết tố nữ. Rối loạn tuyến giáp có thể gây hiện tượng cường oestrogen, từ đó dẫn tới nguy cơ mắc nhân xơ tử cung.
Nhân xơ tử cung có thể khiến mẹ “làm bạn” với nhà vệ sinh thường xuyên
Dấu hiệu nhận biết
Về cơ bản, nhân xơ tử cung có thể gây ra các triệu chứng từ nhẹ, thoáng qua đến rất nhiều triệu chứng điển hình như đau bụng trong chu kỳ kinh nguyệt. Một số dấu hiệu dễ nhận biết:
- Tăng áp lực lên bàng quang hoặc trực tràng dẫn đến mắc tiểu thường xuyên
- Táo bón hoặc đau bụng (trực tràng)
- Đau lưng hoặc đau bụng
Nếu u xơ tử cung to, nó có thể chèn lên dạ dày, làm bụng bệnh nhân to ra trông như người đang mang thai. Đó cũng là lý do nhiều mẹ mắc bệnh mang thai giả.
Nhân xơ tử cung và việc mang thai
Nhân xơ tử cung tuy là bệnh liên quan đến thành tử cung nhưng không hề gây trở ngại cho khả năng sinh sản dù vẫn có một số phụ nữ có u xơ thường chịu những rủi ro trong thai kỳ và khi sinh.
Mắc bệnh u xơ tử cung trong thai kỳ có thể gây ra đau vùng chậu và ra máu nhiều sau khi sinh, thậm chí cần phải phẫu thuật. Rất hiếm trường hợp u xơ tử cungchặn ống dẫn trứng gây khó khăn cho quá trình thụ thai hay u xơ phát triển bên trong tử cung làm cho thai nhi khó phát triển bình thường…
Hướng điều trị bệnh
Để xác định chính xác nhân xơ tử cung, khám sức khỏe định kỳ là cách tốt nhất để bác sĩ tkhám ổ bụng kết hợp với khám phụ khoa, soi âm đạo kết hợp với soi buồng tử cung…
Nếu mắc bệnh ở độ tuổi sau 40, sau khi mãn kinh nhân xơ sẽ tự teo đi mà không phát triển nữa. Thế nhưng, nếu đang trong độ tuổi sinh nở 19-25 tuổi nên điều trị càng xớm càng tốt.
Hiện đang có hai phương pháp:
- Điều trị bằng thuốc: Tất cả những loại thuốc được chỉ đinh chỉ tạm thời làm giảm triệu chứng của u xơ, hoặc làm chậm sự phát triển của u xơ. Một khi người bệnh ngưng điều trị, u xơ sẽ phát triển trở lại.
- Phẫu thuật: Có thể thực hiện phẫu thuật mổ phanh hoặc mổ nội soi để trị dứt điểm.
Như vậy, nhân xơ tử cung không phải là bệnh lý nguy hiểm và không ảnh hưởng đế khả năng thụ thai của phụ nữ. Để chắc chắn, chị em nên đi khám bác sĩ để có hướng điều trị tích cực nhất.